Phương pháp thuyết minh trong bài chủ yếu là phân loại, phân tích, liệt kê. II. Luyện tập. Câu 1 (trang 35 sgk Văn 8 Tập 2): Bố cục bài giới thiệu hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn. - Mở bài: Giới thiệu chung về thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn. - Thân bài: + Đoạn 1
Viết bài tập làm văn số 7 - Nghị luận văn học (Phần 2) Độ dài: 30 phút - Số lượt học 111 Đề cương khóa học - Chưa học - Đã học - Đã hoàn thành HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN 2 00% HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN 4 phút 1080 00% HƯỚNG DẪN LÀM, TẢI VÀ IN BTTL 3 phút 650 BÀI GIẢNG MIỄN PHÍ 00% Luyện tập tóm tắt tác phẩm tự sự - Tham khảo
Tập làm văn: Viết bài tập làm văn số 6 - Văn nghị luận. Phương thức chấm điểm: Lần cao nhất. Số lần nộp bài: 326.
Luyện tập làm bài văn nghị luận về một ý kiến, quan điểm trong tác phẩm văn học - Cái hay của bài thơ ở chỗ: Viết về người lính mà không có tiếng súng, sự chết chóc và đau thương. Số 22 Thành Công - Ba Đình - Hà Nội Hotline: 0984.423.335 Email: novateen.vn@gmail.com
Tiết 19 (Làm văn): Trả bài Làm văn số 1 - Ra đề, hướng dẫn viết bài Làm văn số 2 - nghị luận văn học (bài làm ở nhà) Posted Jun 25, 2012, 11:48 PM by Bách Huỳnh Đăng. Tiết 20 (Văn): Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) Ngu van 11 tiet 20 Van te nghMore PowerPoint
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Với bài soạn Viết bài tập làm văn số 7 đầy đủ và chi tiết nhất giúp các em học sinh ôn lại kiến thức từ đó dễ dàng viết được bài văn nghị luận ở trên bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận Làm trên lớp Trang 128-129 Ngữ văn 8 Tập 2I. ĐỀ BÀI THAM KHẢOĐề 1Viết bài tập làm văn số 7 Tuổi trẻ và tương lai đất nước. Gợi ý Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời dạy của Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào?+ Mở bài+ Thân bài+ Kết bàiĐề 2 Viết bài tập làm văn số 7 Văn học và tình thương. Gợi ý chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết “Thương người như thể thương thân” và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn”+ Mở bài+ Thân bài+ Kết bàiĐề 3 Viết bài tập làm văn số 7 Hãy nói không với các tệ nạn. Gợi ý Hãy viết một bài nghị luận để nêu rõ tác hại của một trong các tộ nạn xã hội mà chúng ta cần phải cương quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc với văn hoá phẩm không lành mạnh…+ Mở bài+ Thân bài+ Kết bài Viết bài tập làm văn số 7 CẦU – Viết bài tập làm văn số 7Câu 1 Các phép lập luận chứng minh và giải Lập luận chứng Lập luận giải thíchCâu 2 Các kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết bài mà em đã học, đặc biệt là kĩ năng đưa các yếu tố tự sự, biểu cảm, và miêu tả vào bài văn nghị luận.+ Kĩ năng dùng từ, đặt câu+ Kỹ năng dựng đoạn, liên kết đoạn, viết bài+ Kỹ năng đưa các yếu tố tự sự, biểu cảm, và miêu tả Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận Làm trên lớp Trang 128-129 Ngữ văn 8 Tập 2 I. ĐỀ BÀI THAM KHẢO Đề 1Viết bài tập làm văn số 7 Tuổi trẻ và tương lai đất nước. Gợi ý Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời dạy của Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào? Trả lời Lời dạy của Bác giúp em hiểu đề bài trên là Tuổi trẻ là tương lai của đất nước. Tương lai của đất nước phụ thuộc vào trình độ học vấn của lớp người trẻ. Lớp trẻ có dày công học tập thì đt nước mới hưng thịnh, bền vững. Dàn bài tham khảo + Mở bài – Giới thiệu vấn đề. “… Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu…”. Lời của Bác đã nằm lòng trong tâm trí biết bao nhiêu con người. “Các cháu” không chỉ là học sinh mà còn là tất cả những người trẻ của đất nước, là lớp thế hệ tương lai của dân tộc. Có trở nên vẻ vang hay không, là nhờ lớp thế hệ trẻ ấy. Nói cách khác, tuổi trẻ chính là tương lai đất nước, tương lai của dân tộc. + Thân bài – Giải thích Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh-thiếu niên. Tuổi trẻ còn là sức trẻ, là những người trẻ – tương lai của đất nước, dân tộc, là những chủ nhân tương lai của thế giới. – Vì sao tuổi trẻ là tương lai của đất nước? Tuổi trẻ là lứa tuổi được học tập, được giáo dục những kiến thức và đạo đức làm hành tranh bước vào cuộc sống mới và xây dựng tương lai mới. Những người trẻ là thế hệ tiếp theo của thế hệ cha anh hôm nay, sẽ tiếp nối công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà cha anh còn đang dang dở. Tuổi trẻ là tuổi được tiếp thu và hấp thụ những thành tựu của thời đại mới, của những phát mình khoa học công nghệ vĩ đại của nhân loại. Vì thế, luồng gió của tuổi trẻ sẽ mang lại một hình ảnh mới cho bức tranh cuộc sống tương lai của đất nước. Người trẻ là những con người của nhiệt huyết, của những đam mê, khát vọng và hoài bão lớn lao. Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, tâm trí của tuổi trẻ bao giờ cũng tràn ngập ước mơ về tương lai tươi sáng, bao giờ cũng tràn trề khát khao được cống hiến và đóng góp, được tỏa rạng trí tuệ và không ngừng sáng tạo. Điều đó giúp cho tuổi trẻ không ngại khó ngại khổ, là nguồn động lực cho sức trẻ được bay cao. – Thực tế cho thấy tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước Đất nước, từ cổ chí kim, đều cần người hiền tài. Nhưng những trí tuệ ấy không mãi ở cùng chúng ta mà cần có người tiếp nối với đủ tài năng và trí tuệ để chèo lái con thuyền đất nước. Những Trần Quốc Toản, Nguyễn Trãi…- bậc hiền tài vang danh sử sách đều rèn luyện tài đức từ thuở thanh thiếu niên, lập nhiều chiến công cho đất nước. Một tấm gương sáng cho mọi thế hệ Việt Nam noi theo-chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng là một người trẻ, là tương lai của đất nước như thế. Với ý chí kiên cường, không ngại khó ngại khổ, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước từ khi mới hai mốt, tự mình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và đã tìm ra con đường cứu nước, cũng là tìm ra con đường mới cho suốt những năm tháng bị đô hộ của nước nhà. Những năm tháng chiến tranh là khoảng thời gian ghi dấu bao bước chân tòng quân của những người trẻ, là cánh đồng in dấu bước chân Lượm thoăn thoát đi liên lạc, là lời chàng trai mười bảy tuổi Lý Tự Trọng “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác.”, là khí thế hiên ngang trước họng súng kẻ thù của chị Võ Thị Sáu “Đả đảo thực dân Pháp. Việt Nam muôn năm. Hồ Chí Minh muôn năm!”. – Mở rộng Những người trẻ ngày hôm nay cần nỗ lực học tập, không ngừng rèn luyện tài-đức để có đủ phẩm chất, đủ năng lực làm rạng danh đất nước. Ngay từ hôm nay, mỗi người cần xây dựng ý thức tự giác, biết tích lũy kinh nghiệm từ trải nghiệm thực tế và tiếp thu từ lớp thế hệ đi trước để chính mình tự trưởng thành, để sau này xây dựng và bảo vệ gia đình, quê hương, tổ quốc. Nhà trường luôn đẩy mạnh công tác giáo dục, tạo ra môi trường học tập tốt nhất cho học sinh và có những hoạt động để các em phát triển toàn diện và thắp sáng ước mơ. Nhà nước cần quan tâm và đặt vấn đề giáo dục lên hàng đầu. + Kết bài Khẳng định lại vấn đề, rút ra bài học cho bản thân. Tuổi trẻ là tương lai của đất nước. Thế hệ trẻ chính là tấm gương phản ánh tương lai của một dân tộc. Vì thế, là một người trẻ chính là mang trên vai trách nhiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hãy luôn học tập, rèn luyện chính mình đã không phụ lòng ông cha và để xây dựng một tương lai tươi sáng cho những thế hệ mai sau. Đề 2 Viết bài tập làm văn số 7 Văn học và tình thương. Gợi ý chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết “Thương người như thể thương thân” và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn” Trả lời Dàn bài tham khảo + Mở bài – Giới thiệu vấn đề cần nghị luận văn học và tình thương. + Thân bài Khái quát chung về văn học – Văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng mang những màu sắc, nội dung, chủ đề vô cùng phong phú, đa dạng qua nhiều thời kì khác nhau. – Mỗi một tác phẩm văn học mang nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật, bài học khác nhau tùy thuộc vào cách cảm nhận, phân tích của mỗi người. – Văn học nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn của con người, giúp con người hoàn thiện nhân cách. – Văn học là linh hồn, là tiếng nói riêng của mỗi quốc gia, góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. – Văn học gắn bó và phản ánh cuộc sống của con người qua nhiều thời kì khác nhau đồng thời nêu lên quan điểm, tâm tư, tình cảm của tác giả cũng như con người. Văn học và tình thương – Văn học nêu lên tình cảm của con người, của tác giả cũng như những ước muốn của những nhân vật, những con người ở trong một hoàn cảnh nhất định. – Văn học dạy con người biết yêu thương, học hỏi, trau dồi thêm nhiều tình cảm tốt đẹp, minh họa qua một số câu ca dao tục ngữ sau “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Hoặc câu “Thương người như thể thương thân” – Văn học còn phản ánh hiện thực con người từ đó nêu lên khát vọng, ước muốn của con người thông qua một số nhân vật, tác phẩm Chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao… + Kết bài – Khái quát lại tầm quan trọng của văn học trong việc bồi dưỡng tình cảm, tình thương của con người và liên hệ thực tiễn. Đề 3 Viết bài tập làm văn số 7 Hãy nói không với các tệ nạn. Gợi ý Hãy viết một bài nghị luận để nêu rõ tác hại của một trong các tộ nạn xã hội mà chúng ta cần phải cương quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc với văn hoá phẩm không lành mạnh… Trả lời Dàn bài tham khảo Viết bài tập làm văn số 7 + Mở bài Nêu khái quát vấn đề để dẫn vào bài VD Đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa để tiến tới một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta phải vượt qua các trở ngại, khó khăn. Một trong những trở ngại đó là các tệ nạn xã hội. Và đáng sợ nhất chính là ma tuý, mối nguy hiểm không của riêng ai. + Thân bài – Giải thích thuật ngữ – Tệ nạn xã hội Tệ nạn xã hội là những hành vi sai trái, không đúng với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Tệ nạn xã hội là mối nguy hiểm, phá vỡ hệ thống xã hội văn minh, tiến bộ, lành mạnh. Các tệ xã hội thường gặp là Tệ nạn ma tuý, mại dâm, đua xe trái phép…và trong đó ma túy là hiện tượng đáng lo ngại nhất, không chỉ cho nước ta mà còn cho cả thế giới. – Ma tuý Là một chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp. Khi ngấm vào cơ thể con người, nó sẽ làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ và tâm trạng của người đó, khiến người sử dụng có cảm giác lâng lâng, không tự chủ được mọi hành vi hoạt động của mình, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. – Ma tuý tồn tại ở rất nhiều dạng như hồng phiến, bạch phiến, thuốc, lắc … dưới nhiều hình thức tinh vi khác nhau như uống, chích, kẹo… – Làm rõ tác hại của ma tuý + Đối với cá nhân người nghiện có thể trình bày theo ba vấn đề Sức khỏe, tinh thần, thể chất Gây suy giảm hệ miễn dịch, giảm khả năng đề kháng làm cho người bệnh dễ mắc các bệnh khác; Ma tuý chính là con đường dễ dàng đi đến những căn bệnh nguy hiểm dễ lây lan đặc biệt là HIV/AIDS; Người nghiện ma tuý sức khoẻ yếu dần, không có khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. Nghiện ma túy khiến cho con người u mê, tăm tối; từ người khoẻ mạnh trở nên bệnh tật, từ đứa con ngoan trong gia đình trở nên hư hỏng, từ công dân tốt của xã hội trở thành đối tượng cho luật pháp. Khi đói thuốc, con nghiện sẽ làm bất cứ điều gì kể cả tội ác Cướp giật, trộm cắp, giết người… + Đối với gia đình Làm cho kinh tế gia đình suy sụp Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình … + Đối với xã hội Là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật, mại dâm … làm cho an ninh xã hội bất ổn. Làm hao tiền tốn của của quốc gia do phải phòng chống, lập trại cai nghiện, … Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang thang làm mất vẻ mỹ quan, văn minh lịch sự, vật vờ trên những con đường của xã hội. Làm suy giảm giống nòi … – Từ việc nêu và phân tích tác hại cần khẳng định Phải nói “không” với ma tuý – Biện pháp Sau khi khẳng định nói “không” cần dẫn để nêu lên biện pháp phòng chống ma tuý Có kiến thức về tác hại, cách phòng tránh ma tuý, từ đó tuyên truyền cho mọi người về tác hại của nó. Hãy tránh xa với ma túy bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh để chống lại mọi thử thách, cám dỗ của xã hội. Nhà nước cần phải có những hình thức xử phạt nghiêm khắc, triệt để đối với những hành vi tàng trữ, buôn bán vận chuyển trái phép ma tuý. Đồng thời cũng phải đưa những người nghiện vào trường cai nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ, tránh những cảnh “nhàn cư vi bất thiện”, giúp họ nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống cộng đồng, không xa lánh, kì thị họ. Tham gia các hoạt động truyền thống tệ nạn xã hội … + Kết bài Viết bài tập làm văn số 7 – Rút ra kết luận Ma túy kinh khủng là thế nên mỗi chúng ta phải biết tự bảo vệ mình, tránh xa những tệ nạn xã hội, tránh xa ma túy. CẦU – Viết bài tập làm văn số 7 Câu 1 Các phép lập luận chứng minh và giải thích. Trả lời Kiến thức cần ôn lại và nắm vững. 1. Lập luận chứng minh. + Khái niệm – Lập luận chứng minh là dùng các lí lẽ, chứng cứ xác thực, đáng tin cậy, được mọi người thừa nhận để khẳng định một luận điểm ý kiến, nhận định, đánh giá là đúng hay sai, có lợi hay hại, đáng tin hay không đáng tin. – Trong lập luận chứng minh, dẫn chứng giữ vai trò chính. Lý lẽ giữ vai trò phụ giúp làm rõ nghĩa cho dẫn chứng. Các lí lẽ, bằng chứng dùng trong phép lập luận chứng minh phải được lựa chọn, thẩm tra, phân tích thì mới có sức thuyết phục. Trong đời sống người ta dùng sự thật chứng cứ xác thực để chứng tỏ một điều gì đó là đáng tin. + Các phương pháp lập luận chứng minh Có 2 phương pháp chính gồm chứng minh trong đời sống thực tế và chứng minh trong các văn bản nghị luận. – Chứng minh trong đời sống Mục đích chứng minh Thuyết phục mọi người tin lời mình nói là sự thật. Phương pháp chứng minh Đưa ra những chứng cứ xác thực. Có thể dùng nhân chứng, vật chứng, số liệu chính xác, việc thật, người thật để làm chứng cứ xác thực cho vấn đề cần chứng minh. – Chứng minh trong văn bản nghị luận Mục đích chứng minh Làm cho luận điểm trong văn bản trở nên đáng tin cậy. Phương pháp chứng minh Lập luận, đưa ra luận cứ bằng lý lẽ, dẫn chứng chính xác, tiêu biểu, chân thực, đã được thừa nhận. + Cách viết bài văn lập luận chứng minh Để làm một bài văn lập luận chứng minh, ta cũng cần tuân thủ quy trình bốn bước sau – Phân tích đề và tìm ý Đọc kĩ đề bài để hiểu các yêu cầu của đề sau đó xác định vấn đề cần chứng minh luận điểm chính, tổng quát của bài. Từ luận điểm chính, xác định các luận điểm phụ để làm rõ luận điểm chính. Tiếp tục xác định các luận cứ dẫn chứng, lí lẽ để làm rõ từng luận điểm phụ. Câu hỏi tìm ỷ đặc trưng của lập luận chứng minh là như thế nào? – Sắp xếp luận điểm chính, các luận điểm phụ với luận cứ đẩy đủ thành dàn bài gồm ba phần Mở bài, thân bài, kết bài. – Hoàn chỉnh dàn ý thành bài văn lập luận chứng minh. – Đọc lại bài và sửa lỗi nếu có. Hệ thống luận điểm trong bài chứng minh phải được xếp theo trình tự hợp lí nhằm giúp người đọc nghe nắm được vấn đề. Có thể chọn trong những cách sau để sắp xếp luận điểm – Theo thứ tự thời gian quá khứ – hiện tại – tương lai; trước – sau; các mùa; các mốc thời gian… – Theo thứ tự không gian trong nước – thế giới; miền Bắc – miền Nam; miền xuôi – miền ngược… – Theo các lĩnh vực hoặc phạm vi của cuộc sống giới tính, tuổi tác, ngành nghề… Mỗi luận điểm có thể trình bày thành một đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp… 2. Lập luận giải thích + Khái niệm – Lập luận giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ… cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người. – Người ta thường giải thích bằng cách nêu ra các định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh đối chiếu với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi, hại, nguyên nhân, hậu quả, cách đề phòng hoặc noi theo…, của hiện tượng hoặc vấn để được giải thích. – Bài văn giải thích phải có mạch lạc, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Không nên dùng những điều không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu. – Muốn được làm bài giải thích tốt phải học nhiều, đọc nhiều, vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích phù hợp. + Các phương pháp lập luận giải thích Có 2 phương pháp lập luận giải thích thường được sử dụng để làm bài văn học nghị luận là – Lập luận giải thích trong đời sống Giải thích giúp ta hiểu những điều chưa biết trong mọi lĩnh vực đời sống hằng ngày. Muốn giải thích được thì phải có những tri thức khoa học, chuẩn xác về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. – Lập luân giải thích trong văn nghị luận Nêu định nghĩa. Nêu các biểu hiện. So sánh đối chiếu với các hiện tượng, vấn đề khác. Chỉ ra nguyên nhân, mặt lợi, ý nghĩa, cách noi theo… Chỉ ra mặt hại, hậu quả, cách đề phòng… + Cách viết bài văn lập luận giải thích Làm bài văn lập luận giải thích cũng cần tuân thủ quy trình bốn bước như viết bài văn lập luận chứng minh. Câu 2 Các kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết bài mà em đã học, đặc biệt là kĩ năng đưa các yếu tố tự sự, biểu cảm, và miêu tả vào bài văn nghị luận. Trả lời + Kĩ năng dùng từ, đặt câu – Các từ ngữ và câu cú sử dụng trong bài văn nghị luận phải ngắn gọn, rõ ràng, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu làm sáng tỏ cho chủ đề. Không nên dùng những điều không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu. + Kỹ năng dựng đoạn, liên kết đoạn, viết bài * Dựng đoạn Cần nhận thức rõ mỗi luận điểm phải được tách ra thành một đoạn văn nghị luận Phải xuống dòng và lùi đầu dòng, chữ đầu tiên phải viết hoa Một đoạn văn nghị luận thông thường cần chứa đựng một số loại câu sau đây Câu chủ đoạn nêu lên luận điểm của cả đoạn, câu chủ đoạn cần ngắn gọn rõ ràng. Câu phát triển đoạn gồm một số câu liên kết nhau câu giải thích, câu dẫn chứng, câu phân tích dẫn chứng, câu so sánh, câu bình luận,… Câu kết đoạn là câu nhận xét, đánh giá vấn đề vừa triển khai, tiểu kết cả đoạn. * Liên kết đoạn – Các đoạn văn trong bài văn đều cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Có 2 mối liên kết liên kết nội dung và liên kết hình thức. – Liên kết nội dung Tất cả đoạn văn trong bài văn bắt buộc phải có liên kết nội dung, nghĩa là mỗi đoạn văn đều phải hướng vào luận đề, làm rõ luận đề. Nếu không thì bài văn sẽ trở nên lan man, xa đề, lạc đề. Có thể thấy sự liên kết nội dung qua những từ ngữ xuất hiện trong mỗi đoạn văn. Các từ ngữ quan trọng trong luận đề hoặc những từ ngữ trong cùng một trường từ vựng ấy thường xuất hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại nhiều lần trong các đoạn văn. – Liên kết hình thức Bên cạnh sự liên kết nội dung ở các đoạn văn, giáo viên cần chỉ ra cho các em cách liên kết hình thức để giúp cho việc triển khai ý thêm dễ dàng, làm cho bài văn trở nên dễ đọc, dễ hiểu, có tính mạch lạc, rõ ràng. Liên kết hình thức có thể thấy rõ qua các câu nối hoặc từ ngữ liên kết đoạn nằm đầu mỗi đoạn văn. Tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn văn mà ta có thể dùng các từ ngữ liên kết đoạn khác nhau, dưới đây là một số từ ngữ mà tần số xuất hiện rất nhiều trong các bài làm văn. Trước tiên, tiếp theo đó, ở khổ thơ thứ nhất, sang khổ thơ thứ hai,…; Bên cạnh đó, song song đó, không những thế, song, nhưng,…; Về cơ bản, về phương diện, có thể nói, cũng có khi, rõ ràng, chính vì, tất nhiên,…;Nếu như, nếu chỉ có thể, thế là, dĩ nhiên, thực tế là, vẫn là, có lẽ,…; Cũng cần nói thêm, trở lại vấn đề,…; Cho dù, mặc dù vậy, nếu như ở trên,…; Nhìn chung, nói tóm lại,… + Kỹ năng đưa các yếu tố tự sự, biểu cảm, và miêu tả – Các yếu tố tự sự và miêu tả, biểu cảm được sử dụng trong bài văn nghị luận phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn. – Các yếu tố tự sự, miêu tả biểu cảm trong văn nghị luận chỉ góp phần làm cho việc trình bày các luận điểm, luận cứ được sáng sủa, sinh động và có sức thuyết phục hơn. – Sau khi lựa chọn được nội dung tự sự, miêu tả, biểu cảm để đưa chúng vào bài văn nghị luận cần chú ý cách diễn đạt các yếu tố đó thành ngôn từ, câu chữ cụ thể. Cần đưa các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm vào bài văn nghị luận một cách khéo léo và vừa phải, không nên sử dụng quá nhiều tránh để bài văn nghị luận trở nên nặng nề, rườm rà, làm giảm sự chú ý của người đọc đối với nội dung chính của bài văn Những luận điểm, luận cứ, dẫn chứng, lí lẽ…
Soạn bài lớp 8 tập 2Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnSoạn Văn 8 Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận là tài liệu tham khảo hay được sưu tầm, giúp bạn thuận tiện hơn trong quá trình soạn bài để chuẩn bị cho bài học mới trên lớp. Mời các bạn tham khảo bài soạn văn 8 này để học tốt môn Ngữ văn lớp 8 Văn 8 Chữa lỗi diễn đạtSoạn Văn 8 Chương trình địa phương phần vănSoạn Văn 8 Luyện tập đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luậnSoạn bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận siêu ngắnSoạn bài lớp 8 bài Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnĐề 1 Tuổi trẻ và tương lai của đất nước gợi ý Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ tha thiết căn dặn "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, ... ở công học tập của các cháu." Đề bài của Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào?a Mở bài Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất Thân bài- Tại sao nói "Tuổi trẻ là tương lai đất nước"?+ Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống hiến cho quê hương, đất nước.+ Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo.+ Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi khó khăn và làm những việc Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế nào? kể về một số tấm gương mà em biết, như Trạng Hiền, Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,....- Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước?+ Ra sức học tập.+ Tham gia tích cực các hoạt động xã hội.+ Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống.+ Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ trước....- Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân và tương lai của đất nước sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,....c Kết bàiTuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới dồi dào ý tham khảo bài văn mẫu Bài văn mẫu lớp 8 số 7 đề 1 Tuổi trẻ là tương lai của đất nướcĐề 2 Văn học và tình thương gợi ý Chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết "thương người như thể thương thân" và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn.a Mở bài Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn Thân bài- Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương?+ Vì văn học là tâm hồn dân tộc.+ Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu nhân Văn học gắn bó với tình thương như thế nào?+ Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người.+ Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc.+ Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con Kết bài Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến tương thêm các bài văn mẫu Bài văn mẫu lớp 8 số 7 đề 2 Văn học và tình thươngĐề 3 Hãy nói không với các tệ nạn gợi ý Hãy viết 1 bài nghị luận để nêu rõ tác hại của 1 trong các tệ nạn xã hội mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc với những văn hoá phẩm không lành mạnh.a Mở bài- Những tệ nạn xã hội nào hiện đang rình rập và làm hại tới giới trẻ và tương lai của đất nước?- Thái độ của giới trẻ ra sao?b Thân bài- Tuổi trẻ hiện nay thường mắc vào các loại tệ nạn như thế nào?- Tác hại của các tệ nạn đối với mỗi cá nhân và xã hội?+ Thiệt hại về vật chất.+ Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.+ Bản thân mỗi cá nhân mất sức sản xuất.+ Trở thành nỗi lo của xã hội.+ Làm gia tăng các loại tệ nạn khác....- Nhận thức của giới trẻ với các tệ nạn ra sao?+ Còn mơ hồ.+ Coi thường, thờ ơ, sống buông thả,...- Cần phải nhận thức vấn đề này ra sao?+ Đây là một trong những con đường nhanh nhất làm phá tan mọi điều tốt đẹp nhất của mỗi con người.+ Cần nhận thức đúng đắn, đồng thời góp ý, chỉ bảo mọi người cùng nhau "Nói không với các tệ nạn xã hội".c Kết bàiKhẳng định sự nguy hiểm của các tệ nạn. Đồng thời khẳng định quyết tâm tiêu trừ thêm các bài văn mẫu Bài viết số 7 lớp 8 đề 3 Hãy nói "Không" với các tệ nạn xã hộiMời các bạn tham khảo tài liệu liên quanDưới đây là bài soạn Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn văn 8 Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luậnNgoài đề cương ôn tập chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 2 lớp 8 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 8 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới
Đề số 1 Tuổi trẻ và tương lai đất nước Mở bài Đặt vấn đề, nêu vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai của đất nước. Có thể trích dẫn câu nói nổi tiếng về tuổi trẻ. Thân bài - Khái niệm tuổi trẻ + Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh niên, thiếu niên. Lứa tuổi được học hành, đang còn ngồi trên ghế nhà trường. + Tuổi trẻ là những năm tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời. - Nhấn mạnh tầm quan trọng của tuổi trẻ với đất nước + Tuổi trẻ là lúc nhiều sức khỏe và thời gian nhất trong cuộc đời mỗi người. + Tuổi trẻ là tuổi có nhiều ước mơ, khát vọng và dám nghĩ dám làm. + Là tuổi có sức bật mạnh mẽ nhất. + Tuổi trẻ là tuổi cống hiến được nhiều nhất cho xã hội. → Với những lợi thế trên, tuổi trẻ trở thành nguồn nhân lực hàng đầu trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển, cường thịnh. - Nhiệm vụ của tuổi trẻ + Tuổi trẻ cần tập trung trau dồi kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành người có nhân cách, năng lực. + Xây dựng kế hoạch và mục tiêu sống kiên định. + Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phải tập trung học tập. + Tích cực tham gia những hoạt động tình nguyện vì cộng đồng. + Tránh xa các tệ nạn xã hội. + Đặt ra những mục tiêu và phương pháp học tập đúng đắn. + Kết hợp giữa học và thực hành để lý thuyết được áp dụng hiệu quả vào thực tiễn cuộc sống. → Phát triển bản thân chính là phát triển sức mạnh của đất nước. Kết bài Khẳng định rằng tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước. Xây dựng và bảo vệ đất nước là nhiệm vụ chung thiêng liêng của mỗi cá nhân trong quốc gia đó, vì vậy thế hệ trẻ cần tích cực trau dồi kiến thức, rèn luyện đạo đức xứng đáng là công dân có ích cho xã hội. Đề số 2 Văn học và tình thương Mở bài Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận văn học và tình thương. Chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa phạm trù này. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng xuất phát từ tình thương và làm lan tỏa tình thương tới cộng đồng. Thân bài - Khái niệm về văn học Văn học là những sáng tác nghệ thuật mà người sáng tác dùng ngôn từ để truyền tải tư tưởng, tình cảm của mình tới người đọc. - Tình thương là sự thương yêu, quan tâm, đồng cảm, chia sẻ giữa người với người - Văn học gắn liền với tình thương + Tình yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn dân tộc. + Có nhiều tác phẩm gắn liền với tình yêu đất nước, sự tự hào dân tộc như Nam Quốc sơn hà Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi, Làng Kim Lân . Quê hương Tế Hanh.- Văn học gắn liền với tình cảm gia đình, sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. + Tình cha con, tình mẫu tử, tình anh em, tình cảm vợ chồng, tình bà cháu… đều được phản ánh trong các tác phẩm văn học. + Dẫn ra các tác phẩm tiêu biểu về chủ đề tình thương yêu gia đình Nói với con Y Phương, Hai đứa trẻ Thạch Lam, Bếp lửa Bằng Việt, Con cò Chế Lan Viên… - Văn học phản ánh tình yêu thương giữa con người với con người với nhau. + Con người sống chung trong một xã hội có các mối quan hệ xã hội phức tạp. Ngoài những tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, còn có tình cảm của con người dành cho con người, những số phận đáng được thương cảm, thấu hiểu. + Dẫn ra những tác phẩm như Chí Phèo Nam Cao, Truyện Kiều Nguyễn Du, Tắt đèn Ngô Tất Tố, Thương vợ Tú Xương…. → Như vậy văn học xuất phát từ tình thương, và mang tình thương truyền tải tới người đọc. Khơi dậy trong mỗi cá nhân những nguồn tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp. Kết bài Khẳng định vai trò của văn học và tình thương đối với cuộc sống. Nhờ có tình thương con người sống với con người chan hòa, hạnh phúc hơn. Nhờ văn học đời sống tinh thần của con người phong phú, tình thương được nhen nhóm và lan tỏa. Đề 3 Hãy nói "không" với các tệ nạn xã hội. Mở bài Đặt vấn đề cần nghị luận. - Trong cuộc sống bên cạnh những điều tốt đẹp còn có nhiều tệ nạn có hại, hủy hoại con người và xã hội. - Nhiều thói quen có sức cám dỗ con người như cờ bạc, thuốc lá, ma túy, "truyền thông đen"… - Nếu con người không có bản lĩnh sẽ dần đi đến sa ngã vào những tệ nạn nguy hiểm trên. Vì vậy hãy nói "không" với tệ nạn xã hội. Thân bài - Giải thích tệ nạn xã hội là gì + Là những hành vi sai trái không đúng với chuẩn mực xã hội, phạm trù đạo đức, pháp luật. Tệ nạn xã hội là mối nguy hại , phá vỡ sự văn minh của xã hội. - Những biểu hiện cụ thể của tệ nạn xã hội. + Tệ nạn xã hội diễn ra ở nhiều nơi, ngay cả làng quê nơi vốn được coi là yên bình. + Tệ nạn xã hội có thể xảy ra ở mọi đối tượng không riêng gì một cá nhân nào. + Tệ nạn xã hội xảy ra ở nhiều thời điểm, lứa tuổi, đối tượng khác nhau. - Tác hại của tệ nạn xã hội gây ra đối với đời sống của con người. + Dẫn ra tác hại về vật chất làm tổn hại tới tài chính, kinh tế. + Tác hại về sức khỏe, tinh thần.+ Tác hại về đạo đức, nhân cách sống. + Tác hại tệ nạn gây ra đối với xã hội, cộng đồng là rất lớn. - Cách phòng chống tệ nạn xã hội + Vơi cá nhân cần trang bị đầy đủ các kiến thức về tệ nạn xã hội, phải hình thành lối sống lành mạnh, suy nghĩ tích cực... + Với gia đình Cần giáo dục con cái sống tích cực, quản lí tốt thời gian, tiền bạc, nêu gương của người lớn... + Với xã hội cần tuyên truyền, đưa ra khung pháp lý nghiêm. + Phòng chống tệ nạn xã hội phải được chú trọng bởi nó có ý nghĩa quan trọng với mỗi quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống yên bình cho cộng đồng. + Tránh xa những tệ nạn xã hội con người có điều kiện và môi trường tích cực để phát triển bản thân. → Cần nói "không" với các tệ nạn xã hội, phải tìm hiểu kiến thức chung về tệ nạn xã hội và các biện pháp tránh xa tệ nạn xã hội. Kết bài Mọi người đặc biệt là người trẻ cần tránh xa và kiên quyết nói "không" với tệ nạn xã hội. Nếu lỡ mắc phải thì cần quyết tâm từ bỏ, làm lại cuộc đời. Cần xây dựng lối sống và môi trường sống lành mạnh để phát triển cá nhân.
VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 7 – VĂN NGHỊ LUẬN làm tại lớp I. ĐỀ BÀI THAM KHẢO Đề 1 Tuổi trẻ là tương lai của đất nước. Đề 2 Văn học và tình thương. Đề 3 Hãy nó không với các tệ nạn. II. GỢI Ý DÀN BÀI Đề 1 a Mở bài. Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước. b Thân bài. - Tại sao nói “Tuổi trẻ là tương lai đất nước”? + Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống hiến cho quê hương, đất nước. + Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo. + Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi khó khăn và làm những việc khó. - Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế nào? kể về một số tấm gương mà em biết, như Trạng Hiền, Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,…. - Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước? + Ra sức học tập. + Tham gia tích cực các hoạt động xã hội. + Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống. + Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ trước. … - Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân và tương lai của đất nước sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,…. c Kết bài. Tuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới dồi dào ý nghĩa. Đề 2 a Mở bài. Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn học. b Thân bài. - Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương? + Vì văn học là tâm hồn dân tộc. + Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu nhân loại. - Văn học gắn bó với tình thương như thế nào? + Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người. + Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc. + Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con người. c Kết bài. Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến tương lai. Đề 3 a Mở bài. - Những tệ nạ xã hội nào hiện đang rình rập và làm hại tới giới trẻ và tương lai của đất nước? - Thái độ của giới trẻ ra sao? b Thân bài. - Tuổi trẻ hiện nay thường mắc vào các loại tệ nạn như thế nào? - Tác hại của các tệ nạn đối với mỗi cá nhân và xã hội? + Thiệt hại về vật chất. + Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. + Bản thân mỗi cá nhân mất sức sản xuất. + Trở thành nỗi lo của xã hội. + Làm gia tăng các loại tệ nạn khác. … - Nhận thức của giới trẻ với các tệ nạn ra sao? + Còn mơ hồ. + Coi thường, thờ ơ, sống buông thả,… - Cần phải nhận thức vấn đề này ra sao? + Đây là một trong những con đường nhanh nhất làm phá tan mọi điều tốt đẹp nhất của mỗi con người. + Cần nhận thức đúng đắn, đồng thời góp ý, chỉ bảo mọi người cùng nhau “Nói không với các tệ nạn xã hội”. c Kết bài. Khẳng định sự nguy hiểm của các tệ nạn. Đồng thời khẳng định quyết tâm tiêu trừ nó. Tham khảo một số bài viết 1. Luận về nguyên lý văn chương Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lý tức là cái lẽ căn nguyên của việc ấy. Văn chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ câu hát, viết ra bài luận, bài văn, thì gọi là văn chương. Song thử xem căn nguyên của văn chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra thì gọi là nguyên lý văn chương. Cha mẹ dạy con, giảng giải đều hơn lẽ thiệt, rạch ròi kẽ tóc chân tơ. Hai người tự tình biệt ly với nhau, ấm lạnh ngọt bùi, kể hết nỗi này kể sang nỗi khác. Người đàn bà lỡ bước, thở dài than vắn, phàn nàn những số phận hẩm hưu. Đứa mục đồng đi chăn trâu, nhân khi thích chí nghêu ngao vài tiếng giữa đồng, đó toàn là cái mầm của văn chương cả. Nói cho cùng thì một tiếng cười một tiếng khóc của đứa trẻ thơ, cũng là cái gốc văn chương. Người ta có tính tình, có tư tưởng, có ngôn ngữ văn tự, thì tự nhiên phải có văn chương. Tính tình người ta cảm xúc với ngoại vật, sinh ra khi mừng, khi giận, khi vui, khi buồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối tình ấy chứa ở trong bụng, tất phải phát tiết ra nhời nói đó tức là nguyên lý văn chương. Tư tưởng cái suy nghĩ tự trong óc biết phân biệt lẽ phải lẽ trái, biết phán đoán điều dở điều hay, biết suy xét đến những lý cao xa, mắt không trông thấy tai không nghe tiếng. Những điều nghĩ ra được lại muốn tỏ cho người khác biết, đó cũng là nguyên lý văn chương. Có tính tình, có tư tưởng, mà nếu không có ngôn ngữ văn tự thì cũng không thành văn chương được. Xem như giống súc vật có cảm giác, có tri thức, mà không có văn chương là bởi vì không có ngôn ngữ văn tự. Vậy ta phải nhờ có ngôn ngữ văn tự mới đạt được tính tình tư tưởng của ta, thì ngôn ngữ văn tự cũng là cái nguyên lý của văn chương. Nói rút lại thì sở dĩ có văn chương, một là bởi ở tính tình, hai là bởi ở tư tưởng, ba là bởi ở ngôn ngữ văn tự, đó là ba cái căn nguyên trước nhất. Có ba cái căn nguyên ấy, rồi những sự quan cảm ở bề ngoài đưa đến mới thành ra văn chương vậy. Quan cảm bề ngoài, thì lại do ở cảnh tượng của tạo hoá, do ở công việc của cuộc đời và ở cảnh ngộ của một mình. Cảnh tượng của tạo hoá hiển hiện ra trước mắt ta, nghìn hình muôn trạng, làm cho ta phải nhìn phải ngắm, phải nghĩ ngợi ngẩn ngơ. Ta cứ theo cái cảnh tượng ấy mà tả ra thì gọi là văn chương tả cảnh. Công việc của cuộc đời, xảy qua đến mắt ta, chạm đến tai ta, việc gần việc xa, việc nhớn việc nhỏ, có việc ta ghét, có việc ta ưa, làm cho ta phải khen phải chê, phải cười phải khóc. Ta cứ theo công việc đó mà ghi chép lại thì gọi là văn chương tự sự hay là nghị luận. Cảnh ngộ của một mình, khi gặp được cảnh sung sướng, khi gặp phải cảnh chua cay. Ta nhân cái cảnh ngộ đó, ta muốn giãi tỏ cái tình của ta thì gọi văn chương tự tình hay là thuật hoài. Văn chương tuy nhiều, nhưng đại ý thì bất ngoại ba điều ấy. Cứ như vậy thì văn chương cũng là một cái lẽ tự nhiên, phải có của trời phú bẩm cho người ta. Song người ta tuy có sẵn cái phú bẩm ấy, nhưng phi có tài cũng không tả được, mà có tài phi có học thì văn chương cũng không sao hay được. Văn chương khác nhau với nhời nói thường. Nhời nói thường thì gặp đâu nói đấy, miễn là nói cho xuôi nhời, cho người ta hiểu được ý mình thôi. Chớ văn chương thì phải nói cho có ý nhị, có văn hoa, phải xếp đặt cho ra nhời óng chuốt, ý tứ đầu đuôi phải quán xuyến với nhau, mới thành được văn chương. Người làm văn chương, cũng như một tay hoạ công. Hoạ công có khéo tay thì mới vẽ đúng được hình tượng, văn chương có tài tình mới tả đúng được tinh thần. Người có văn chương, lại như cây có hoa. Cây có bồi dưỡng được nhiều khí lực thì nở ra hoa mới được phổng pháp. Người có hàm súc được nhiều kiến thức tư tưởng thì tả ra văn mới được dồi dào. Bởi các lẽ ấy mà tài văn chương là tài hiếm có, mà khoa văn chương là khoa tối cao vậy. Phan Kế Bính 2. Suy nghĩ về việc học Học để làm gì? Câu hỏi ấy nghe ra thật là tầm thường cũ rích, tưởng như không ai để ý đến; nhưng cứ như những câu trả lời của các nhà học giả xưa nay thì có một câu vắn tắt mà có thể bao quát được toàn thể và công dụng sự học là Học để làm người Theo câu nói ấy, có kẻ lại cãi rằng Vậy thì không học không làm người được sao? Kìa như ông Hán Cao Tổ không học mà làm một ông vua anh hùng; ông Hoắc Quang không học mà làm được công nghiệp lớn. Bên Âu Tây, nhiều nhà đại chính trị đại sáng tạo, hoặc trọn đời ở trong các mỏ, các công xưởng mà làm được công việc to đó thì sao? Còn ở trên đời biết bao nhiêu người vào trường nọ, đậu bằng kia, đào mãi trong trăm ngàn bộ sách, miệng nói ra rành là chuyện văn hào đông tây, mà xét đến phẩm cách tính chất, có điều mất cả tư cách làm người nữa. Thế thì câu nói "học để làm người" không phải là không đúng sao? Phải, chỉ nói trông không là "học", thì có hơi không rõ ràng mà lẫn lộn như trên, nên trước phải hiểu cái "học làm người" này không phải như người mình thường gọi là "đi học". Theo lối thông thường người mình thì có ôm sách tới trường, có thầy dạy, có thi có đỗ, mới gọi là học. Nhưng cái học làm người này thì khác hẳn thế. Sao vậy? Cái học làm người này, nói về học khoá cần thiết thì người thông thường ai cũng có thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết phận sự; mà nói đến chỗ cao diệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám tự phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã là "người" thì ai cũng là người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà không có hạn lượng. Trăm năm ngắn ngủi, trẻ, lớn, già, chết không cái gì mới lạ. Song kẻ thì thánh hiền hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm; người thì có công với nhân loại, muôn đời ai cũng hinh hương, người lại hại giống hại nòi, trăm miệng cũng đều thoá mạ. Không những thế mà thôi, làm một người về thời đại cổ, và làm một người ở thời đại nay khác nhau; làm người ở nước giàu mạnh với làm người ở nước hèn yếu khác nhau, suy ra đối với nước nhà mình và đối với thế giới nhân loại chung, nên làm người thế nào. Cảnh địa của người trăm chiều không đồng nhau thì cái cách làm người cho xứng đáng thích hợp cũng không phải cùng một cách. Những chuyện mấy bậc vĩ nhân đông tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho người sau học theo mà người nào có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho người sau một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn quyển sách cũng chẳng hơn chi. Cái trường học để "làm người" đó tức là cái cõi đời ta ở vậy. Bao nhiêu sự khốn khó ở đời, bao nhiêu sự kinh nghiệm người trước để lại đều là những bài dạy cho ta. "Làm người" ở đời đã khó như trên đã nói thì "học làm người" chắc không phải chuyện dễ. Trong cái trường học mông mênh kia, trắng vàng chen lộn, sự lành sự ác, điều dở điều hay không thiếu thứ gì; nên ai đã đem thân tòng học ở cái trường ấy thì cần phải có cặp mắt biết quan sát và cái não biết phán đoán để lựa những chuyện đáng làm theo, cùng những chuyện đáng chữa cãi. Cái mục đích chân chính của sự học là thế đó. Học như thế mới mong bổ ích cho đời, làm được một phần việc trong xã hội. Trái lại, nếu mới cặp sách đến trường mà trong não đã mơ tưởng đến chức kia hàm nọ, thấy người ta xuống ngựa lên xe, mà cũng ao ước cho được cửa cao nhà rộng, thì cái bả hư vinh, cái mồi phú quý ấy chắc không sao nhắc ta lên cái địa vị làm một người chân chính ở đời được. Vậy ai muốn khỏi cái tiếng hư sinh thì cần phải "học để làm người"; mà học để làm người không phải nhất định có cắp sách đến trường và thi đỗ bằng này bằng nọ, nhưng chính là noi gương kim cổ mà học theo, làm cho hết nghĩa vụ một người đối với nhân quần xã hội vậy Báo Tiếng dân, số 282, ngày 17-5-1930.
Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận trang 128 – 129 SGK ngữ văn lớp 8 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận làm tại lớp, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất. Hướng dẫn soạn bài – Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận I. Đề bài tham khảo Giải đề 1 – Đề bài tham khảo Trang 128 SGK ngữ văn 8 tập 2 Tuổi trẻ và tương lai đất nước. Gợi ý Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời dạy của Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào? Trả lời a Mở bài Đặt vấn đề, nêu vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai của đất nước. Có thể trích dẫn câu nói nổi tiếng về tuổi trẻ. b Thân bài – Khái niệm tuổi trẻ + Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh niên, thiếu niên. Lứa tuổi được học hành, đang còn ngồi trên ghế nhà trường. + Tuổi trẻ là những năm tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời. – Nhấn mạnh tầm quan trọng của tuổi trẻ với đất nước + Tuổi trẻ là lúc nhiều sức khỏe và thời gian nhất trong cuộc đời mỗi người. + Tuổi trẻ là tuổi có nhiều ước mơ, khát vọng và dám nghĩ dám làm. + Là tuổi có sức bật mạnh mẽ nhất. + Tuổi trẻ là tuổi cống hiến được nhiều nhất cho xã hội. → Với những lợi thế trên, tuổi trẻ trở thành nguồn nhân lực hàng đầu trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển, cường thịnh. – Nhiệm vụ của tuổi trẻ + Tuổi trẻ cần tập trung trau dồi kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành người có nhân cách, năng lực. + Xây dựng kế hoạch và mục tiêu sống kiên định. + Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phải tập trung học tập. + Tích cực tham gia những hoạt động tình nguyện vì cộng đồng. + Tránh xa các tệ nạn xã hội. + Đặt ra những mục tiêu và phương pháp học tập đúng đắn. + Kết hợp giữa học và thực hành để lý thuyết được áp dụng hiệu quả vào thực tiễn cuộc sống. → Phát triển bản thân chính là phát triển sức mạnh của đất nước. c Kết bài Khẳng định rằng tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước. Xây dựng và bảo vệ đất nước là nhiệm vụ chung thiêng liêng của mỗi cá nhân trong quốc gia đó, vì vậy thế hệ trẻ cần tích cực trau dồi kiến thức, rèn luyện đạo đức xứng đáng là công dân có ích cho xã hội. Giải đề 2 – Đề bài tham khảo Trang 128 SGK ngữ văn 8 tập 2 Văn học và tình thương. Gợi ý Chứng minh rằng văn học dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết “thương người như thể thương thân” và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn. Trả lời a Mở bài Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận văn học và tình thương. Chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa phạm trù này. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng xuất phát từ tình thương và làm lan tỏa tình thương tới cộng đồng. b Thân bài – Khái niệm về văn học Văn học là những sáng tác nghệ thuật mà người sáng tác dùng ngôn từ để truyền tải tư tưởng, tình cảm của mình tới người đọc. – Tình thương là sự thương yêu, quan tâm, đồng cảm, chia sẻ giữa người với người. – Văn học gắn liền với tình thương + Tình yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn dân tộc. + Có nhiều tác phẩm gắn liền với tình yêu đất nước, sự tự hào dân tộc như Nam Quốc sơn hà Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi, Làng Kim Lân . Quê hương Tế Hanh. – Văn học gắn liền với tình cảm gia đình, sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. + Tình cha con, tình mẫu tử, tình anh em, tình cảm vợ chồng, tình bà cháu… đều được phản ánh trong các tác phẩm văn học. + Dẫn ra các tác phẩm tiêu biểu về chủ đề tình thương yêu gia đình Nói với con Y Phương, Hai đứa trẻ Thạch Lam, Bếp lửa Bằng Việt, Con cò Chế Lan Viên… – Văn học phản ánh tình yêu thương giữa con người với con người với nhau. + Con người sống chung trong một xã hội có các mối quan hệ xã hội phức tạp. Ngoài những tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, còn có tình cảm của con người dành cho con người, những số phận đáng được thương cảm, thấu hiểu. + Dẫn ra những tác phẩm như Chí Phèo Nam Cao, Truyện Kiều Nguyễn Du, Tắt đèn Ngô Tất Tố, Thương vợ Tú Xương…. → Như vậy văn học xuất phát từ tình thương, và mang tình thương truyền tải tới người đọc. Khơi dậy trong mỗi cá nhân những nguồn tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp. c Kết bài Khẳng định vai trò của văn học và tình thương đối với cuộc sống. Nhờ có tình thương con người sống với con người chan hòa, hạnh phúc hơn. Nhờ văn học đời sống tinh thần của con người phong phú, tình thương được nhen nhóm và lan tỏa. Giải đề 3 – Đề bài tham khảo Trang 128 SGK ngữ văn 8 tập 2 Hãy nói “không” với các tệ nạn. Gợi ý Hãy viết một bài nghị luận để nêu rõ tác hại của một trong các tệ nạn xã hội mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma túy, hoặc tiếp xúc với văn hóa phẩm không lành mạnh,… Trả lời a Mở bài Đặt vấn đề cần nghị luận. – Trong cuộc sống bên cạnh những điều tốt đẹp còn có nhiều tệ nạn có hại, hủy hoại con người và xã hội. – Nhiều thói quen có sức cám dỗ con người như cờ bạc, thuốc lá, ma túy, “truyền thông đen”… – Nếu con người không có bản lĩnh sẽ dần đi đến sa ngã vào những tệ nạn nguy hiểm trên. Vì vậy hãy nói “không” với tệ nạn xã hội. b Thân bài – Giải thích tệ nạn xã hội là gì + Là những hành vi sai trái không đúng với chuẩn mực xã hội, phạm trù đạo đức, pháp luật. Tệ nạn xã hội là mối nguy hại , phá vỡ sự văn minh của xã hội. – Những biểu hiện cụ thể của tệ nạn xã hội. + Tệ nạn xã hội diễn ra ở nhiều nơi, ngay cả làng quê nơi vốn được coi là yên bình. + Tệ nạn xã hội có thể xảy ra ở mọi đối tượng không riêng gì một cá nhân nào. + Tệ nạn xã hội xảy ra ở nhiều thời điểm, lứa tuổi, đối tượng khác nhau. – Tác hại của tệ nạn xã hội gây ra đối với đời sống của con người. + Dẫn ra tác hại về vật chất làm tổn hại tới tài chính, kinh tế. + Tác hại về sức khỏe, tinh thần. + Tác hại về đạo đức, nhân cách sống. + Tác hại tệ nạn gây ra đối với xã hội, cộng đồng là rất lớn. – Cách phòng chống tệ nạn xã hội + Vơi cá nhân cần trang bị đầy đủ các kiến thức về tệ nạn xã hội, phải hình thành lối sống lành mạnh, suy nghĩ tích cực… + Với gia đình Cần giáo dục con cái sống tích cực, quản lí tốt thời gian, tiền bạc, nêu gương của người lớn… + Với xã hội cần tuyên truyền, đưa ra khung pháp lý nghiêm. + Phòng chống tệ nạn xã hội phải được chú trọng bởi nó có ý nghĩa quan trọng với mỗi quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống yên bình cho cộng đồng. + Tránh xa những tệ nạn xã hội con người có điều kiện và môi trường tích cực để phát triển bản thân. → Cần nói “không” với các tệ nạn xã hội, phải tìm hiểu kiến thức chung về tệ nạn xã hội và các biện pháp tránh xa tệ nạn xã hội. c Kết bài Mọi người đặc biệt là người trẻ cần tránh xa và kiên quyết nói “không” với tệ nạn xã hội. Nếu lỡ mắc phải thì cần quyết tâm từ bỏ, làm lại cuộc đời. Cần xây dựng lối sống và môi trường sống lành mạnh để phát triển cá nhân. II. Yêu cầu Ôn luyện kĩ về Các phép lập luận chứng minh và giải thích. Các kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết bài mà em đã học, đặc biệt là kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận. Tham khảo thêm cách soạn khác bài Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận I. ĐỀ BÀI THAM KHẢO Đề 1. Tuổi trẻ và tương lai đất nước. Trả lời a Mở bài – Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước. – Dẫn dắt câu “Non sông Việt Nam…” b Thân bài – Giải thích thế nào là tuổi trẻ + Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh niên, học sinh, đang được trang bị kiến thức. + Tuổi trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. – Vì sao thế hệ trẻ lại ảnh hưởng đến tương lai đất nước + Thanh niên là thế hệ tiếp tục bảo vệ xây dựng đất nước sau này. + Thế hệ trẻ càng nhiều kiến thức đất nước càng đi lên. + Thế hệ trẻ giỏi giang, có đạo đức sẽ làm tương lai phát triển đất nước. → Muốn sánh vai với các cường quốc thì nhờ công học tập của thế hệ trẻ hiện nay. – Thực tế đã chứng minh việc học tập của thế hệ trẻ tác động đến tương lai đất nước Những người chăm chỉ học tập rèn luyện khi còn trẻ thì sau này cống hiến cho đất nước. Trước đây những người như Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi từ thời trẻ đã chăm chỉ luyện tập, trưởng thành lập được những chiến công làm rạng danh đất nước. Ngày nay Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng,.. + Từ xưa đến nay, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong Trong chiến tranh chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trong thời bình học tập rèn luyện, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế,.. Các thế hệ học sinh, sinh viên hiện nay đang ra sức học tập rèn luyện để phát triển đất nước. – Làm thế nào để phát huy được vai trò của tuổi trẻ? + Đảng và nhà nước cần có chính sách ưu đãi và quan tâm hơn nữa để thế hệ trẻ phát huy được thế mạnh của mình + Mỗi người trẻ cần tự nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình. c Kết bài. – Khẳng định tầm quan trọng của thế hệ trẻ. – Liên hệ bản thân, rút ra bài học. Đề 2. Văn học và tình thương. Trả lời a Mở bài – Lòng nhân ái, tình yêu thương giữa con người với con người là đạo lí của dân tộc ta. – Văn học luôn ngợi ca những tấm lòng nhân ái đồng thời cũng lên án những kẻ thờ ơ, dửng dưng hoặc nhẫn tâm chà đạp lên số phận con người. b Thân bài – Giải thích Văn học là gì? tình thương là gì? + Văn học là một môn nghệ thuật dùng ngôn ngữ để tái hiện đời sống.. + Tình thương là một trong những đức tính tốt đẹp của con người. → Mối quan hệ giữa văn học và tình thương + Theo Hoài Thanh nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người. + Các tác phẩm văn chương thường khơi gợi tình thương và lòng nhân ái của con người. – Văn học ca ngợi lòng nhân ái + Trước hết là những tình cảm ruột thịt trong mỗi gia đình Cha mẹ yêu thương, hết lòng, hi sinh vì con cái. Con cái hiếu thảo, yêu thương, kính trọng cha mẹ. Anh chị em ruột thịt yêu thương, đùm bọc nhau. lão Hạc, bé Hồng, chị Dậu, cái Tí-thằng Dần. + Tình làng nghĩa xóm.ông giáo với lão Hạc, bà lão láng giềng với gia đình chị Dậu… + Tình đồng nghiệp, bạn bè, thầy trò 3 nhân vật họa sĩ trong Chiếc lá cuối cùng. – Văn học phê phán những kẻ thờ ơ hoặc nhẫn tâm chà đạp lên số phận con người. + Những kẻ thiếu tình thương ngay trong gia đình.bà cô bé Hồng trong Trong lòng mẹ, ông bố nghiện ngập trong Cô bé bán diêm... + Những kẻ lạnh lùng, độc ác ngoài xã hội. vợ chồng nghị Quế trong Tắt đèn, những người qua đường đêm giao thừa trong Cồ bé bán diêm... c Kết bài. – Khắng định mối quan hệ giữa văn học và tình thương. – Liên hệ bản thân em, văn học đã giúp em có những tình cảm và cảm xúc như thế nào? Đề 3. Hãy nói “không” với các tệ nạn. Trả lời a Mở bài. – Ngày nay xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội. – Những tệ nạn xã hội ấy nguy hại đến cuộc sống của mỗi người dân và của cả cộng đồng. Vì vậy cần phải loại trừ các tệ nạn đó. b Thân bài. – Tệ nạn xã hội là gì – Tại sao phải nói “không” với tệ nạn xã hội. + Cờ bạc, thuốc lá, ma túy là những thói hư tật xấu gây tác hại ghê gớm với con người và cả xã hội. + Chúng là mối nguy cơ với cả đất nước. – Nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội + Do bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê → lâu dần dẫn tới nghiện.. + Do tò mò, a dua, học đòi… – Tác hại của những tệ nạn đó + Cờ bạc khiến con người mất sức khỏe, tiền bạc, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, gây ra các nạn trộm cắp, cướp giết,.. + Thuốc lá khói thuốc ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân người hút và cả những người xung quanh, tiêu tốn tiền bạc,.. + Ma túy là chất kích thích khiến người ta rơi vào trạng thái ảo giác, hoang tưởng, khiến sức khỏe suy kiệt. Nghiện ma túy sẽ dẫn tới làm mất danh dự, nhân phẩm, đạo đức của mình vì sẽ rơi vào trộm cắp, cướp của để lấy tiền thỏa mãn cơn nghiện,.. c Kết bài. Cần nói không với các tệ nạn. II. YÊU CẦU Ôn luyện kĩ về Các phép lập luận chứng minh và giải thích. Các kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết bài mà em đã học, đặc biệt là kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận. Bài văn mẫu đề 1 Bác Hồ kính yêu đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam bao tình cảm thiết tha sâu nặng. “Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh?”. Tình yêu đằm thắm ấy được biểu hiện qua nhiều bức thư Bác gửi các cháu nhân ngày khai trường hoặc Tết trung thu “Trung thu trăng sáng như gương, Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng” Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hổ Chủ tịch có viết “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, trên đất nước Việt Nam yêu quý của chúng ta đã có bao đổi thay lớn lao, bao biến cố lịch sử trọng đại, nhưng câu nói của Bác vẫn sáng ngời giá trị giáo dục và khích lệ tuổi trẻ trên mọi miền Tổ quốc. Ý tưởng sâu sắc của Bác Hồ được diễn đạt bằng một câu văn giàu hình tượng và cảm xúc. Vế thứ nhất Bác hỏi “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không?” có nghĩa là Bác hỏi về tiền đồ của Tổ quốc ta, tương lai của dân ta có được tốt đẹp, rỡ ràng, có trở nên giàu mạnh, văn minh như các cường quốc Anh, Nga, Pháp, Mĩ, Nhật,… hay không? Vế thứ hai là sự gợi ý, là cách trả lời của Bác “chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”, hay nói một cách khác, Bác nêu lên nghĩa vụ học tập của học sinh đối với Tổ quốc và dân tộc. Qua câu văn ấy, Bác giáo dục học sinh về nhiệm vụ học tập, về trách nhiệm nặng nề, vẻ vang đối với tương lai tươi sáng của non sông Việt Num, của dân tộc Việt Nam”. Học tập là nghĩa vụ vẻ vang của học sinh đối với Tổ quốc và dân tộc. Học sinh là mầm non, là tương lai của gia đình và dân tộc; là thế hệ nối bước cha anh để xây dựng và bảo vệ đất nước “mười lần đẹp hơn” như Bác Hồ mong muốn. Bằng tính cần cù sáng tạo và chí dũng cảm, bằng tâm hồn và trí tuệ, tài năng, học sinh – thanh thiếu niên nhi đồng – sẽ đảm đương sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà Bác Hồ giao phó. Muốn hoàn thành nghĩa vụ ấy, học sinh phải đủ đức, tài. Muốn có đức tài chỉ có con đường học tập và rèn luyện để nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kĩ thuật, trở thành công dân tốt, người lao động giỏi, những chuyên gia… tài năng, giàu nhiệt huyết để phục vụ Tổ quốc, đóng góp “một phần lớn” vào mục tiêu dân giàu nước mạnh, mới kì vọng làm cho “non sông Việt Nam được trở nên vẻ vang… dân tộc Việt Nam được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu”… Học tập là trách nhiệm nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang của học sinh. Sau gần một thế kỉ bị thực dân Pháp thống’ trị, “nhà tù nhiều hơn trường học”, nước ta xơ xác tiêu điều, dân ta đói khổ, hơn 90% dân số bị mù chữ! Việt Nam là một trong những nước lạc hậu trên thế giới. Thanh toán quá khứ nặng nề ấy, “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” là nhiệm vụ của toàn dân, nhưng học sinh phải là những chiến sĩ xung kích, như Bác dạy “chính một phần lớn là nhờ ở công học tập của các cháu”. Câu nói trên đây là lời dạy, là tấm lòng, là tình thương của Bác đối với học sinh. Bác mong các cháu phải gắng sức, phải siêng năng học hành, biết học tập một cách thông minh sáng tạo. Có học tốt, học giỏi mới thành tài, có học vấn cao, có tri thức tiên tiến hiện đại. Có học tập tốt mới thực hiện được ước mơ, hoài bão của mình. Bác giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam phải có mục tiêu, động cơ học tập đúng đắn. Học để làm gì? Học tập không phải để làm quan, để vinh thân phì gia, mà là vì một mục đích cao cả học tập để làm người, có nhân cách văn hoá, đem tài năng phục vụ sự nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, văn minh. Câu nói trên biểu lộ một phần tin yêu sâu sắc của lãnh tụ đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Lời của Bác là lời non nước. Bác thay mặt nhân dân nói lên tiếng nói của Tổ quốc để động viên, khích lệ học sinh ra sức thi đưa học tập giỏi. Bác chỉ cho học sinh thấy con đường sáng đi tới ngày mai. Hạnh phúc của tuổi trẻ gắn liền với tiền đồ, tương lai xán lạn của đất nước và của dân tộc. Bức tin yêu học sinh – con em của một dân tộc cần cù và dũng cảm, thông minh và hiếu học. Sau gần 30 năm chiến tranh giải phóng, Tổ quốc đã giành được độc lập, hoà bình. Việt Nam là một trong những nước kém phát triển, chúng ta đã ngẩng cao đầu bước vào thế kỉ XXI. Các kì thi quốc tế về toán, lí, hóa,… học sinh Việt Nam đã giành được nhiều thành tích vẻ vang. Chặng đường đi tới để dân tộc ta, đất nước ta “vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu” đâu thuận lợi, dễ dàng, một sớm một chiều mà thực hiện được? Cho nên câu nói của Bác vẫn mang ý nghĩa thời sự nóng bỏng, có giá trị giáo dục và động viên các thế hệ học sinh Việt Nam vươn lên. Suốt đời Bác Hồ chỉ có “một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, dồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Bác đã dạy “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Trong thư Trung thu Bác đã viết “Các cháu hãy xứng đáng Cháu Bác Hồ Chí Minh” Ôn lại những lời dạy của Bác Hồ, đọc lại bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta vô cùng cảm động trước sự thương yêu, chăm sóc, giáo dục của Người đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Còn gì hạnh phúc hơn được học tập và đem tài năng phục vụ Tổ quốc, làm vẻ vang cho dân tộc. Thi đua học tập tốt là chúng ta đã tự giác làm đúng lời Bác dạy. Câu nói trên là tình yêu lớn toả sáng tâm hồn tuổi thơ. Học tập cũng là yêu nước. Bài văn mẫu đề 2 Lòng nhân ái là một chủ đề in sâu, in đậm trong nền văn học của dân tộc ta. Con người Việt Nam giàu tình thương nên văn học dân tộc mới có nhiều tác phẩm ca ngợi tình thương một cách thật hay, thật cảm động như thế. Tình cha con, mẹ con, tình anh em chị em ruột thịt, tình bè bạn, tình yêu đồng loại… như những ngọn lửa ấm áp làm bừng sáng câu thơ, bài văn, làm cho người đọc không khỏi bồi hồi xúc động. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ…”, “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa / Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”, “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”… Những câu hát câu ca đã cùng lời ru tiếng hát của bà, của mẹ thấm sâu vào hồn tuổi thơ, mà mỗi chúng ta sẽ mang theo suốt cuộc đời Mẹ ru cái lẽ ở đời Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn, Bà ru mẹ, mẹ ru con Liệu mai sau các con còn nhớ chăng? Từ mái nhà êm ấm mẹ cha, ta mang theo tình thương anh, thương chị, thương em, ta biết “Chị ngã, em nâng”, ta nhớ “Anh em như thể tay chân”,… để bước vào đời, sống giữa tình thương bao la của đồng bào, đồng chí, đồng loại. Thầy, cô giáo dạy ta bài học “Thương người như thể thương thân”, nhắc ta biết ăn, ở có tình nghĩa thuỷ chung “Bầu ơi, thương lấy bí cùng, Tuy rằng khúc giống nhưng chung một giàn”, hoặc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng” Truyện Trung đại viết bằng chữ Hán đã ngợi ca những con người giàu tâm đức. Bà đỡ Trần giúp hổ cái vượt qua cơn đau đẻ được mẹ tròn con vuông, bác tiều phu ở Lạng Giang đã thò tay vào miệng hổ cứu hổ bị hóc xương. Người thì được hổ đền ơn 10 lạng bạc, người thì được hổ biếu lợn, nai, lúc qua đời được hổ đến đưa tang. Quan ngự y Phạm Bân đã dựng nhà thương, phát cơm cháo, thuốc men, cứu chữa hàng nghìn người nghèo khó vượt qua cơn dịch bệnh, được người đời ngợi khen là “bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức”. Vũ Trinh và Phạm Đình Hổ đã để lại bao trang văn, bao hình ảnh, bao câu chuyện nói về tình thương, ca ngợi tình thương rất giàu ý nghĩa và có tác dụng giáo dục sâu sắc. “Truyện Kiều ” của thi hào Nguyễn Du và “Truyện Lục Vân Tiên ” của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu là hai kiệt tác bằng chữ Nôm giàu giá trị nhân đạo. Hai cụ đã dành những vần thơ đẹp nhất ca ngợi tình yêu chung thuỷ của lứa đôi, đồng thời nói lên chữ nhân, chữ nghĩa thật sâu sắc, cảm động. Vai Giác Nguyên, mụ Quản gia, Tiểu đổng, Lão bà, Vương Tử Trực,… là những con người đẹp mãi, sống mãi trong lòng người bởi tình thương. Người đọc có bao giờ quên lời Kiều nói trong buổi báo ân báo oán “Nhớ khi lỡ bước sẩy vời, Non vàng chưa dề đền bồi tấm thân Nghìn vàng gọi chút lễ thường Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân! Truyện Kiều Coi những nhân vật như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Trịnh Hâm,… lũ bạc ác tinh ma ấy sẽ bị thế gian muôn đời nguyền rủa và phỉ nhổ. Bên cạnh những con người nhân đức biết san sẻ cưu mang “lá lành đùm lá rách” lại có những kẻ lòng dạ đóng băng, dửng dưng trước nỗi đau của đồng loại, sống vô cảm, vô tình, “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Những kẻ ấy ai đoái, ai nhìn, ai trọng, ai gần? Tôi rất thích chữ “thương” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu “Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá / Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Tôi nhớ mãi chữ “thương ” trong câu thơ của Tố Hữu “Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” Tóm lại, lòng nhân ái, chữ thương, chữ tình, chữ nghĩa trong thơ văn của dân tộc đã ướp thơm hồn người, đã truyền cho ta sức mạnh để sống đẹp hơn, để vượt qua mọi thử thách khó khăn trong cuộc đời, để sống gần người hơn, nhân ái hơn. Bài văn mẫu đề 3 Đất nước ta đang trên đường phát triển và hội nhập. Xã hội ngày một đổi mới. Nhân dân ta đã và đang làm nên bao thành tựu to lớn về kinh tế, về văn hoá,… rất đáng tự hào. Nhưng đó đây, ta vẫn thấy “cộm” lên không ít hiện tượng tiêu cực làm hoen ố xã hội như tệ nạn cờ bạc, xì ke ma tuý, sống ăn chơi đua đòi, sống buông thả, tiếp xúc với văn hoá phẩm không lành mạnh,… Có không ít kẻ phạm tội là lứa tuổi vị thành niên, là học sinh trong các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Báo An Ninh từng đăng tải bao chuyên đau lòng. Vì nghiện ma túy mà có đứa con cầm dao giết cha mẹ, có đứa cháu dùng thuốc độc giết ông bà. Vì thua lỗ cờ bạc, nợ nần mà có một số đứa trẻ 14, 15 tuổi tổ chức thành băng cướp, giêt người, cướp của một cách rất dã man. Cầm đầu những nhóm trộm cướp mà nhiều phóng sự đưa tin và lên án là những kẻ cờ bạc, tiêm chích ma tuý. Đứng trước vành móng ngựa là hình ảnh những phạm nhân với cặp mắt tinh quái, với đầu bù tóc rối, nhuộm đỏ, nhuộm vàng, nhuộm xanh, tai đeo khuyên bạc, ngực, bụng, lưng và chân tay,… xăm đủ hình xanh, đen các quái vật, các dị nhân rất khủng khiếp. Để có tiền ăn chơi mà nhiều đứa trẻ vị thành niên gây ra bao vụ án mạng rùng rợn. Một số học sinh cá biệt sa vào vòng ăn chơi đua đòi, dây vào văn hóa phẩm không lành mạnh mà chốn học, bỏ học rồi sa ngã, phạm tội. Điện thoại di động “xin” cầm tay đi lại nghênh ngang, túm tụm quán nhậu, quán cà phê… rất “sành điệu” phì phèo thuốc lá “ba số” tuy còn đi học nhưng trốn học kéo nhau đi chơi điện tử, dối cha mẹ lừa thầy cô giáo gây ra nhiều vụ “quậy” rất đáng lên án và chê trách. Không ít các bậc cha mẹ trở nên bất lực khi có con em ăn chơi trác táng, rượu chè cờ bạc bê tha, tiêm chích ma túy mà bỏ học mà phạm tội. Mở bất cứ tờ báo hàng ngày nào, báo địa phương cũng như báo trung ương, nhất là các báo Thanh niên, báo Tuổi Trẻ, báo Tiền Phong, báo Pháp luật… độc giả bắt gặp bao chuyện đau lòng, bao hiện tượng tiêu cực mà các phóng viên từng mạnh mẽ lên án. Hãy nói không với các tệ nạn! Hãy xa lánh các kẻ cờ bạc, tiêm chích ma túy! Hãy tự nghiêm khắc với bản thân mình đừng dây vào các văn hoá phẩm không lành mạnh! Câu tục ngữ “dữ, giữ mình” mà ông bà, cha mẹ vẫn nhắc nhở cháu con là bài học vô cùng sâu sắc. Tuổi trẻ phải biết tự bảo vệ mình. Hơn bao giờ hết, học sinh phải biết tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, chăm chỉ học hành để sớm trở thành người con tốt của gia đình, người công dân tốt của đất nước. HTTPS//
viết bài tập làm văn số 7 văn nghị luận